Lịch sử tách từ
Lịch sử
Michael Faraday phát hiện ra rằng khi một chất được đặt trong môi trường từ tính, cường độ của môi trường sẽ bị thay đổi. Với thông tin này, ông phát hiện ra rằng các vật liệu khác nhau có thể được phân tách bằng đặc tính từ tính của chúng. Bảng dưới đây cho thấy các khoáng chất sắt từ và thuận từ phổ biến cũng như cường độ trường cần thiết để tách𝚝𝚑𝚎khoáng chất.
Khoáng chất sắt từ và thuận từ thông thường
Khoáng sản Công thức Cường độ trường (kG)
sắt từ từ tính {\displaystyle {\ce {Fe3O4}}}{\displaystyle {\ce {Fe3O4}}} 1
pyrohotit {\displaystyle {\ce {Fe7S8}}}{\displaystyle {\ce {Fe7S8}}} 0,5 - 4
Thuận từ Ilmenit {\displaystyle {\ce {FeTiO3}}}{\displaystyle {\ce {FeTiO3}}} 8 - 16
Nhìn chằm chằm {\displaystyle {\ce {FeCO3}}}{\displaystyle {\ce {FeCO3}}} 9 - 18
Cromit {\displaystyle {\ce {FeCr2O4}}}{\displaystyle {\ce {FeCr2O4}}} 10 - 16
Hematit {\displaystyle {\ce {Fe2O3}}}{\displaystyle {\ce {Fe2O3}}} 12 - 18
Wolframite {\displaystyle {\ce {(Fe,Mn)WO4}}}{\displaystyle {\ce {(Fe,Mn)WO4}}} 12 - 18
Tourmaline 16 - 20
Vào những năm 1860, việc tách từ tính bắt đầu được thương mại hóa. Nó được sử dụng để tách sắt khỏi đồng thau. Sau những năm 1880, vật liệu sắt từ bắt đầu được tách ra từ tính. Vào những năm 1900, phương pháp tách từ cường độ cao được triển khai cho phép tách các vật liệu thực dụng. Sau Thế chiến thứ hai, hệ thống phổ biến nhất là nam châm điện. Kỹ thuật này đã được sử dụng ở các bãi phế liệu. Tách từ được phát triển trở lại vào cuối những năm 1970 với các công nghệ mới được triển khai. Các hình thức tách từ mới bao gồm ròng rọc từ, nam châm trên cao và trống từ.
Ở các mỏ nơi vonfram được trộn với cassiterit, chẳng hạn như mỏ South Crofty và East Pool ở Cornwall hoặc với bismuth như tại mỏ Shepherd và Murphy ở Moina, Tasmania, phương pháp tách từ được sử dụng để tách quặng. Tại các mỏ này, một thiết bị gọi là Máy tách từ trường Wetherill (được phát minh bởi John Price Wetherill, 1844–1906) đã được sử dụng. Trong máy này, quặng thô sau khi nung được đưa vào một băng tải chạy qua bên dưới hai cặp nam châm điện, dưới đó các đai tiếp theo chạy vuông góc với băng tải. Cặp bi đầu tiên có từ tính yếu và có tác dụng hút hết quặng sắt có trong đó. Cặp thứ hai bị từ hóa mạnh và thu hút vonfram, chất có từ tính yếu.[4] Những máy này có khả năng xử lý 10 tấn quặng mỗi ngày.